Assessment of needs, use, preferences and willingness to pay for hiv-related health services among key and general populations in four provinces in VN

Lý lịch
Những thay đổi gần đây của chính phủ Việt Nam đã cho phép các nhà đầu tư thành lập các bệnh viện và phòng khám tư nhân, giới thiệu các dịch vụ bổ sung và cải tiến với mức phí cao. Việc mọi người sẵn sàng tìm kiếm các dịch vụ với một khoản phí thay vì phụ thuộc vào các phòng khám và bệnh viện do nhà nước điều hành đã chứng tỏ mong muốn thanh toán cho các dịch vụ và có thể tạo cơ hội cho các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe khác, chẳng hạn như cộng đồng dựa vào cộng đồng chủ chốt tổ chức (CBO) và doanh nghiệp xã hội (SEs). Tổng cộng, khoảng 45% chi tiêu chăm sóc sức khỏe trên mỗi người là tiền túi (OOP) và con số này được dự báo sẽ tăng gần gấp ba lần trong thập kỷ tới và vẫn là một tỷ trọng đáng kể trong tổng chi tiêu y tế trong tương lai. Tuy nhiên, vẫn chưa biết mức chi tiêu OOP này được thể hiện như thế nào bởi các nhóm dân số chính và nhóm dân số nói chung với mật độ dày đặc các tỉnh nội thành hoặc ven đô. Ngoài ra, trong khi Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ trong bao phủ y tế toàn dân (UHC) và chăm sóc sức khỏe ban đầu (CSSKBĐ), thì vẫn còn xa mục tiêu mong muốn là bao phủ trên 80%. 
Các CBO và SE rất quan trọng trong việc cung cấp dịch vụ chăm sóc cho những người bị ảnh hưởng bởi và sống chung với HIV, và tính bền vững của chúng là chìa khóa để duy trì việc phòng ngừa, chăm sóc và điều trị HIV khi nguồn tài trợ bên ngoài giảm. Dự án Vietnam INVEST tìm cách phân tích lĩnh vực này và hỗ trợ giới thiệu các mô hình mới thông qua đánh giá các mô hình dựa trên thị trường, có thể mở rộng cho các CBO và SGDCK để cung cấp các dịch vụ CSSKBĐ bền vững về mặt tài chính góp phần tiếp cận UHC nói chung.
Mục đích của nghiên cứu người tiêu dùng là cung cấp thông tin cung cấp thông tin về việc lập kế hoạch kinh doanh và đầu tư của các CBO / SGDCK dân số quan trọng để giúp họ phát triển và duy trì hoạt động kinh doanh của mình trong thời gian dài. Nghiên cứu cũng khám phá nhận thức của người tiêu dùng về chất lượng và năng lực hiện tại của các CBO và SE được đánh giá và đánh giá loại dịch vụ nào là cần thiết và nhu cầu và sở thích khác nhau như thế nào giữa các nhóm dân cư và khu vực địa lý. 


Mục tiêu
Các mục tiêu cụ thể của nghiên cứu là:
1) Đo lường mức độ sẵn sàng chi trả cho các dịch vụ và hàng hóa y tế giữa các nhóm dân cư chính (KP) và dân số nói chung (GP). 
2) Đo lường việc sử dụng các dịch vụ y tế thương mại và hàng hóa giữa các KP và bác sĩ đa khoa.
3) Xác định các sở thích cụ thể của người tiêu dùng KP và GP liên quan đến các dịch vụ y tế và hàng hóa.
4) Xây dựng hồ sơ người tiêu dùng theo nhóm nhỏ giữa KP và GP dựa trên hành vi mua hàng, tình trạng kinh tế xã hội, độ tuổi, giới tính, sở thích sản phẩm.
5) Kiểm tra nhận thức, giá trị thương hiệu và chất lượng cảm nhận của các CBO và SGDCK đã được đánh giá tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai và Cần Thơ.
6) Tìm hiểu lý do sử dụng và / hoặc không sử dụng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe do CBO / SE cung cấp cụ thể giữa những người tham gia nghiên cứu.
7) Thông báo cho kế hoạch đầu tư và kinh doanh của các CBO / SEs dân cư chủ chốt dựa trên các kết quả từ các mục tiêu 1-6. 


Thiết kế
nghiên cứu Nghiên cứu sử dụng thiết kế khảo sát cắt ngang với các phương pháp thu thập dữ liệu định lượng và định tính bao gồm phỏng vấn trực tiếp sử dụng CAPI và thảo luận nhóm tập trung (FGDs). Mẫu bao gồm các nhóm dân số chính (nam quan hệ tình dục đồng giới-MSM, chuyển giới nữ - TGW, phụ nữ bán dâm - PNBD, và những người tiêm chích ma tuý - PWID) và dân số nói chung.


Sample size
Quantitative sample
The provincial quota for each key population group was 60 MSM, 30 TGW, 30 FWS and 30 PWID, and 60 members of the GP (about 50% female) and this sample were drawn from people living in project areas.  Convenience sampling was applied to recruit participants for this study. Finally, there were 862 people interviewed.
Qualitative sample
A total of 16 focus group discussions were carried out in Hanoi, Ho Chi Minh, Dong Nai and Can Tho. On average, 4 focus group discussions per province were conducted and each focus group discussion consisted 6 to 8 persons from general population or from key population.
Study time and location
Nghiên cứu về người tiêu dùng do Viện Nghiên cứu Y tế và Xã hội thực hiện từ tháng 12 năm 2020 đến tháng 1 năm 2021 tại Hà Nội, Hồ Chí Minh, Đồng Nai và Cần Thơ

Comment